Bước tới nội dung

Victor Wanyama

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Victor Wanyama
Wanyama tập luyện khi còn là cầu thủ Celtic vào năm 2012
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Victor Mugubi Wanyama[1]
Ngày sinh 25 tháng 6, 1991 (33 tuổi)[1]
Nơi sinh Nairobi, Kenya
Chiều cao 1,88 m (6 ft 2 in)
Vị trí Tiền vệ phòng ngự
Thông tin đội
Đội hiện nay
Montreal Impact
Số áo 2
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
2006–2008 JMJ Youth Academy
2006 Nairobi City Stars
2006–2007 AFC Leopards
2007–2008 Helsingborg
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2008–2011 Beerschot 51 (2)
2011–2013 Celtic 61 (10)
2013–2016 Southampton 85 (4)
2016–2020 Tottenham Hotspur 69 (6)
2020– Montreal Impact 21 (2)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2007– Kenya 62 (7)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 13 tháng 11 năm 2020
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 12 tháng 10 năm 2020

Victor Mugubi Wanyama (sinh ngày 25 tháng 6 năm 1991) là cầu thủ bóng đá người Kenya thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Montreal ImpactĐội tuyển bóng đá quốc gia Kenya.

Wanyama là cầu thủ Kenya đầu tiên ghi bàn tại UEFA Champions League khi ghi bàn mở tỉ số trong chiến thăng 2-1 của Celtic trước Barcelona vào ngày 7 tháng 11 năm 2012.[2] Ngày 11 tháng 7 năm 2013, Wanyama chuyển đến Premier League thi đấu cho Southampton với phí chuyển nhượng 12,5 triệu £, giúp anh trở thành cầu thủ Kenya đầu tiên thi đấu tại Premier League và là cầu thủ có giá chuyển nhượng cao nhất từ một câu lạc bộ Scotland.

Vào tháng 5 năm 2007 khi mới 15 tuổi, Wanyama đã khoác áo đội tuyển Kenya và hiện đang là đội trưởng.

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Giai đoạn đầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Wanyama là cựu cầu thủ của hai câu lạc bộ tại Kenya là Nairobi City StarsAFC Leopards. Năm 2007, anh đến Thụy Điển chơi cho Helsingborg trong vòng một năm.

Beerschot AC

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa hè năm 2008, Wanyama chính thức khoác áo đội bóng Bỉ Beerschot AC. Anh bắt đầu được đá chính từ cuối mùa giải 2008–09. Tháng 9 năm 2009, anh bị phạt 100 € và bị cấm thi đấu ba trận do hành vi phạm lỗi thô bạo với Matias Suarez của Anderlecht.

Wanyama có bàn thắng đầu tiên cho Beerschot vào ngày 11 tháng 12 năm 2010 trong trận đấu với Westerlo. Đến tháng 4 năm 2011, anh lại bị cấm thi đấu ba trận một lần nữa sau khi bị phát hiện có hành vi giật cùi chỏ đối phương qua băng ghi hình lại trận đấu giữa Beerschot và K.V. Kortrijk.

Ngày 9 tháng 7 năm 2011, Wanyama chính thức chuyển đến Celtic tại Scotland với bản hợp đồng có thời hạn 4 năm sau khi anh đã bị từ chối cấp giấy phép lao động trước đó nhưng Celtic đã khiếu nại thành công quyết định từ chối.[3] Wanyama chọn khoác áo số 67 tại Celtic để vinh danh đội hình Celtic (Lisbon Lions) giành chức vô địch Cúp Châu Âu 1967.[3] Anh có trận đấu đầu tiên cho Celtic trong trận thua 1-0 trước St Johnstone vào ngày 21 tháng 8 năm 2011. Ngày 29 tháng 9 năm 2011, anh có trận đấu đầu tiên tại cúp Châu Âu cho đội bóng Scotland, trong trận hòa 1-1 với Udinese tại Europa League.[4]

Ngày 10 tháng 12 năm 2011, Wanyama có bàn thắng đầu tiên cho Celtic, một quả sút xa đẹp mắt đem về chiến thắng 1-0 trước Hearts.[5] Tháng 12 năm 2011, anh được bầu là Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất trong tháng của Giải bóng đá ngoại hạng Scotland.[6]

Tháng 10 năm 2012, Wanyama lập cú đúp trong trận đấu với St. Mirren tại sân Saint Mirren Park, trong đó có một quả sút xa.[7] Ngày 7 tháng 11 năm 2012, bằng một quả đánh đầu uy lực, Wanyama trở thành cầu thủ Kenya đầu tiên ghi bàn tại UEFA Champions League và giúp Celtic có chiến thắng đầy bất ngờ trước Barcelona với tỉ số 2-1.[8]

Southampton

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 7 năm 2013, Wanyama chính thức chuyển đến Premier League khoác áo Southampton với phí chuyển nhượng 12,5 triệu £[9], giúp anh trở thành cầu thủ Kenya đầu tiên thi đấu tại Premier League.[10] Anh có trận ra mắt vào ngày 17 tháng 8 năm 2013 trong trận thắng 1–0 trước West Bromwich Albion.[11] Trong mùa giải đầu tiên, Wanyama bị gãy xương chân vào tháng 12 năm 2013 và chỉ trở lại từ tháng 4 năm 2014.[12]

Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Southampton trong chiến thắng 1-0 trước Swansea City vào ngày 20 tháng 9 năm 2014, sau khi vào sân thay cho James Ward-Prowse vào phút 69 của trận đấu[13], trở thành cầu thủ Kenya đầu tiên ghi bàn ở Premier League.[14] Anh được bầu chọn là Cầu thủ Châu Phi xuất sắc nhất Giải bóng đá Ngoại hạng Anh trong tháng 9 năm 2014.[15] Bàn thắng kế tiếp đến trong trận thắng 8–0 trước Sunderland vào ngày 19 tháng 10 năm 2014.[16] Ngày 1 tháng 11 năm 2014, Wanyama có pha ghi bàn với khoảng cách gần giữa sân sau pha phá bóng lỗi của thủ môn Eldin Jakupović. Bàn thắng này cũng giúp Southampton đánh bại Hull City 1-0.[17]

Tottenham Hotspur

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 23 tháng 6 năm 2016, Tottenham Hotspur chính thức có được Wanyama với bản hợp đồng có thời hạn 5 năm và phí chuyển nhượng trị giá 11 triệu £.[18] Huấn luyện viên của Tottenham, ông Mauricio Pochettino, cũng chính là người đã đem anh về Southampton vào tháng 7 năm 2013.[19] Wanyama có bàn thắng đầu tiên cho Tottenham vào ngày 21 tháng 8 năm 2016 và đây cũng là bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Crystal Palace, đem về trận thắng đầu tiên trong mùa giải cho Spurs.[20]

Montreal Impact

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 3 tháng 3 năm 2020. Wanyama chuyển đến Montreal Impact từ Tottenham

Sự nghiệp đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Wanyama có trận đấu đầu tiên cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Kenya vào tháng 5 năm 2007 khi mới 15 tuổi trong trận giao hữu với Nigeria.[10] Từ năm 2013 anh là đội trưởng đội tuyển bóng đá nước này.

Bàn thắng quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 14 tháng 10 năm 2018.[21]
International goals by date, venue, cap, opponent, score, result and competition
# Ngày Địa điểm Số trận Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1 15 tháng 11 năm 2011 Sân vận động Nyayo National, Nairobi, Kenya 18  Seychelles 4–0 4–0 Vòng loại World Cup 2014
2 7 tháng 6 năm 2015 Sân vận động Amahoro, Kigali, Rwanda 34  Nam Sudan 1–0 2–0 Giao hữu
3 29 tháng 5 năm 2016 Trung tâm Thể thao Quốc tế Moi, Kasarani, Kenya 42  Tanzania 1–1 1–1
4 24 tháng 3 năm 2018 Sân vận động Marrakech, Marrakesh, Maroc 50  Comoros 1–0 2–2
5 14 tháng 10 năm 2018 Trung tâm Thể thao Quốc tế Moi, Kasarani, Kenya 52  Ethiopia 3–0 3–0 Vòng loại CAN 2019
6 7 tháng 6 năm 2019 Sân vận động Robert Bobin, Bondoufle, Pháp 54  Madagascar 1-0 1-0 Giao hữu

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Celtic
  • Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất mùa giải Giải bóng đá ngoại hạng Scotland: 2012–13
  • Cầu thủ Châu Phi xuất sắc nhất tháng Giải bóng đá Ngoại hạng Anh: tháng 9 năm 2014

Cuộc sống cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Anh trai của anh, McDonald Mariga, cũng là một cầu thủ bóng đá.[22]

Năm 2015, Wanyama tham gia vào một bộ phim ngắn về bóng đá tại Kenya mang tên Mdudu Boy, kịch bản và đạo diễn bởi nữ diễn viên Ella Smith.[23]

Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Wanyama trong màu áo Celtic 2012
Tính đến ngày 11 tháng 3 năm 2020.[24][25]
Câu lạc bộ Mùa giải Giải đấu Cúp quốc gia Cúp Liên đoàn Châu Âu Tổng cộng
Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Beerschot AC 2008–09 1 0 1 0
2009–10 20 0 1 0 21 0
2010–11 30 2 4 0 34 2
Tổng cộng 51 2 5 0 56 2
Celtic
2011–12 29 4 4 0 4 0 5 0 42 4
2012–13 32 6 5 1 2 0 10 2 49 9
Tổng cộng 61 10 9 1 6 0 15 2 91 13
Southampton
2013–14[26] 23 0 1 0 0 0 24 0
2014–15[27] 32 3 2 0 4 0 38 3
2015–16[28] 30 1 0 0 2 0 3 0 35 1
Tổng cộng 85 4 3 0 6 0 3 0 97 4
Tottenham Hotspur 2016–17[29] 36 4 3 0 1 0 7 1 47 5
2017–18[30] 18 1 5 0 0 0 1 0 24 1
2018–19[31] 13 1 1 0 2 0 6 0 22 1
2019–20[32] 2 0 0 0 1 0 1 0 4 0
Tổng cộng 69 6 9 0 4 0 15 1 97 7
Montreal Impact 2020[32] 21 2 1 0 22 2
Tổng cộng sự nghiệp 287 24 26 1 16 0 32 3 363 28

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b “Victor Wanyama”. Goal.com. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  2. ^ “Wanyama: Saints' sights on Europe”. FIFA. ngày 17 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  3. ^ a b “Germinal's Victor Wanyama completes switch to Celtic”. BBC Sport. ngày 9 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  4. ^ “Celtic 1–1 Udinese”. BBC Sport. ngày 29 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  5. ^ “Celtic 1–0 Hearts”. BBC Sport. ngày 10 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  6. ^ “Celtic's Victor Wanyama named SPL Young Player of the Month”. STV Sport. ngày 13 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  7. ^ “Clinical Celtic warmed up for the Nou Camp with what turned out to be little more than a training exercise as they outclassed a feeble St Mirren”. BBC Sport. BBC Sport. ngày 20 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  8. ^ “Debutant Watt lights up memorable Celtic victory”. UEFA. ngày 25 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  9. ^ “Victor Wanyama: Southampton sign Celtic midfielder for £12.5m”. BBC Sport. ngày 11 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  10. ^ a b “I made Rod Stewart cry, now I can be a big hit - Southampton £12m new boy Wanyama hoping to make his mark on the south coast”. Daily Mail Online. ngày 23 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  11. ^ “West Brom 0–1 Southampton”. BBC Sport. ngày 17 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  12. ^ “Victor Wanyama desperate for Saints to end with record breaking tally”. Daily Echo. ngày 21 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  13. ^ “Swansea 0–1 Southampton”. BBC Sport. ngày 20 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  14. ^ “Kenyan Player's Dream Is Fulfilled, but It May Not Be Over Yet”. The New York Times. ngày 9 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  15. ^ “Victor Wanyama Wins Premier League Award”. Nairobiwire. ngày 8 tháng 10 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  16. ^ Reddy, Luke (ngày 18 tháng 10 năm 2014). “Southampton 8 – 0 Sunderland”. BBC Sport. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  17. ^ Keegan, Mike (ngày 1 tháng 11 năm 2014). “Hull City 0 – 1 Southampton”. BBC Sport. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  18. ^ “Victor Wanyama: Tottenham sign Southampton midfielder on five-year deal”. bbc.co.uk. ngày 23 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  19. ^ “Tottenham sign Victor Wanyama from Southampton”. telegraph.co.uk. ngày 23 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  20. ^ “Tottenham v Crystal Palace: Victor Wanyama seals Spurs' first Premier League win for 2016-2017”. Fox Sports. ngày 21 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  21. ^ Victor Wanyama tại Soccerway
  22. ^ “Kenyan international midfielder McDonald Mariga gets a lifeline”. Standard Digital. ngày 23 tháng 1 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  23. ^ Ellis, Dawn (ngày 2 tháng 7 năm 2015). “Film being made by Westcountry actor has celebrity support”. Western Morning News. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  24. ^ “V. WANYAMA Stats”. Soccerway. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2012.
  25. ^ “Victor Wanyama Stats”. Soccerbase. Racing Post. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2016.
  26. ^ “Trận thi đấu của Victor Wanyama trong 2013/2014”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2017.
  27. ^ “Trận thi đấu của Victor Wanyama trong 2014/2015”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2017.
  28. ^ “Trận thi đấu của Victor Wanyama trong 2015/2016”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2017.
  29. ^ “Trận thi đấu của Victor Wanyama trong 2016/2017”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2017.
  30. ^ “Trận thi đấu của Victor Wanyama trong 2017/2018”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2018.
  31. ^ “Trận thi đấu của Victor Wanyama trong 2018/2019”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2018.
  32. ^ a b “Trận thi đấu của Victor Wanyama trong 2019/2020”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2020.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]